Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đình Đức bản ngoại – xã Nhân Nghĩa

Tin xã, thị trấn  
Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đình Đức bản ngoại – xã Nhân Nghĩa
Đình Đức Bản Ngoại được xây dựng vào cuối thời Lê (Lê Trung Hưng) và được tu bổ lớn vào đầu thời Nguyễn, đình mang đậm phong cách kiến trúc, nghệ thuật thời Hậu Lê. Năm 2009 đình được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Đình có quy mô kiến trúc lớn, kiến trúc cổ truyền, nhiều mảng trạm khắc đặc sắc độc đáo. Hiện nay, đình vẫn giữ được tương đối nguyên vẹn kiến trúc cổ và những mảng chạm khắc dân gian có giá trị.

Theo các thư tịch Hán Nôm còn được lưu giữ ở đình như Thần tích (dựa theo “Truyền kỳ tân phả Vân Cát thần nữ truyện'' của Hồng Hà nữ sỹ Đoàn Thị Điểm) Sắc phong, Văn tế, Hoành phi câu đối, lễ hội, truyền thuyết ở địa phương thì đình Đức Bản Ngoại thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh công chúa và hai vị thị nữ Quỳnh Anh và Quế Anh phu nhân.

 Ngôi đình mang đậm phong cách kiến trúc thời Hậu Lê, tọa lạc trên thế đất “Lý ngư vọng nguyệt" với diện tích 1560m2 theo hướng Nam ghé Đông.

Ngôi đình kiến trúc gồm Tiền đường và Hậu cung, tòa Tiền đường gồm 3 gian 2 trái; đặc biệt Tiền đường còn giữ được 2 sàn cầu gỗ lim có chiều dài 5,2 m; chiều rộng 6,3 m. Bộ khung chịu lực của tòa Tiền đường gồm 6 vì, mỗi vì 4 hàng cột bằng gỗ lim hình trụ, cột cái cao 3,5 m, đường kính 0.45 m, cột quân cao 2,69 m đường kính 0,32 m. Hậu cung gồm 3 gian 4 vì hình thức kiến trúc theo kiểu: giá  chiêng chồng rường có đủ 7 tiền 7 hậu, có một sàn thờ bằng gỗ đặt 3 cỗ long ngai.

Theo các thư tịch Hán Nôm còn được lưu giữ ở đình như Thần tích (dựa theo “Truyền kỳ tân phả Vân Cát thần nữ truyện'' của Hồng Hà nữ sỹ Đoàn Thị Điểm) Sắc phong, Văn tế, Hoành phi câu đối, lễ hội, truyền thuyết ở địa phương thì đình Đức Bản Ngoại thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh công chúa và hai vị thị nữ Quỳnh Anh và Quế Anh phu nhân.

30007717_579480425761752_1614776540_n (1).JPG

Mặt trước sân đình Đức Bản Ngoại

 Ngôi đình mang đậm phong cách kiến trúc thời Hậu Lê, tọa lạc trên thế đất “Lý ngư vọng nguyệt" với diện tích 1560m2 theo hướng Nam ghé Đông.

Ngôi đình kiến trúc gồm Tiền đường và Hậu cung, tòa Tiền đường gồm 3 gian 2 trái; đặc biệt Tiền đường còn giữ được 2 sàn cầu gỗ lim có chiều dài 5,2 m; chiều rộng 6,3 m. Bộ khung chịu lực của tòa Tiền đường gồm 6 vì, mỗi vì 4 hàng cột bằng gỗ lim hình trụ, cột cái cao 3,5 m, đường kính 0.45 m, cột quân cao 2,69 m đường kính 0,32 m. Hậu cung gồm 3 gian 4 vì hình thức kiến trúc theo kiểu: giá  chiêng chồng rường có đủ 7 tiền 7 hậu, có một sàn thờ bằng gỗ đặt 3 cỗ long ngai.

Toàn bộ các khâu kiến trúc đình đều thể hiện kỹ thuật trạm khắc điêu luyện hết sức tinh tế và sinh động ở cả Tiền đường và Hậu cung. Các vì: vì nóc, vì nách theo kiểu lá lật, cách điệu kê trên đấu vuông thắt đáy vừa khỏe vừa mềm mại, thể hiện sự điêu luyện về kỹ thuật chạm khắc công phu, tỉ mỉ bằng trí sáng tạo nghệ thuật của các nghệ nhân, dân gian thời xưa. Ngôi đình có mái đao cong vút, có lưỡng long chầu nguyệt, có những chú nghê rạng rỡ nụ cười nhìn ánh dương mới hé trên một kiểu chữ đinh bề thế trang nghiêm.

3 cỗ long ngai sàn thờ hậu cung (1).JPG

Ba cỗ long ngai sàn thờ trong hậu cung

Những bộ phận của ngôi đình mang tên “mái tầu, lá tầu, quá giang, quá hải, kẻ, bẩy" các cột nối nhau bằng một khung vững chắc chịu đựng sức nén nặng của các bộ phận bên trên. Phần cơ bản của ngôi đình bằng gỗ không sử dụng đến đinh, những hoa lá đường nét vừa mềm mại vừa cứng cỏi thể hiện nghệ thuật kiến trúc dân tộc thời đó phát triển một cách mạnh mẽ, toàn diện.

Đồ thờ còn lưu giữ khá nhiều đồ cổ quý hiếm, mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê và thời Nguyễn bao gồm nhiều thể loại khác nhau như: đồng, đá, gỗ, sành, sứ …

Đình là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử cách mạng kháng chiến, gắn liền với truyền thống của quê hương Nhân Nghĩa anh hùng và tấm gương anh dũng hi sinh bất khuất trung kiên của 30 cụ già và 2 thiếu niên làng Đức Bản trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược năm 1952. Là thành quả cần cù lao động, trí sáng tạo, lòng yêu quê hương, chứa đựng giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của bao thế hệ người dân nơi đây.

IMG_3367.JPG

Với ý thức trân trọng, giữ gìn di sản văn hóa của cha ông, sau hòa bình lập lại và những năm gần đây, được sự quan tâm của các cấp, các ngành, nhân dân địa phương đã làm tốt công tác xã hội hóa di tích, tu bổ những hạng mục xuống cấp như đảo ngói, thay một số hoành, rui mối mục...trồng cây cổ thụ xung quanh đình, khôi phục lại đội tế, tổ chức lễ hội và các trò chơi dân gian. Đình đã thành lập Ban khánh tiết từ năm 1994, có thủ từ thường xuyên trông coi bảo vệ di tích.

Về lễ hội hằng năm: được tổ chức thành 2 kì lễ chính:

- Giỗ mẫu vào ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch

- Lễ cầu phúc (Thượng điền) từ 10-12/6 âm lịch.​